Hệ thống cảng biển Việt Nam có thành viên mới

Chưa phân loại
Mất:4 phút, 30 giây để đọc

Cảng biển Việt Nam được quản lý và giám sát bởi Cục Đường thủy nội địa Việt Nam thuộc Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam. Và được phân loại theo các quy mô khác nhau. Mới đây, Bộ Giao thông Vận tải công bố danh mục bến cảng thuộc hệ thống cảng biển Việt Nam. Hệ thống cảng biển Việt Nam có thành viên mới. So với đợt công bố vào tháng 4/2020, hệ thống cảng biển Việt Nam đã tăng lên 8 bến cảng mới. Tổng cộng thời điểm hiện tại Việt Nam có 286 bến cảng. Chi tiết như thế nào mời bạn xem tiếp bài viết sau của Webthoisu.

Hệ thống cảng biển Việt Nam có thành viên mới

Theo danh mục bến cảng thuộc các cảng biển Việt Nam do Bộ Giao thông Vận tải công bố mới đây. Hệ thống cảng biển Việt Nam có thêm 8 bến cảng mới. Trong đó, cảng biển Vũng Tàu có số bến cảng tăng nhiều nhất, gồm: Bến cảng Hyosung Vina Chemicals, Bến cảng Quốc phòng Quân khu 7, Bến cảng chuyên dùng Dự án Tổ hợp hóa dầu miền Nam, Bến cảng Hải đoàn 129.

Ngoài ra, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Khánh Hòa, mỗi địa phương có thêm một bến cảng. Cụ thể, cảng biển Hải Phòng có thêm bến cảng MPC Port; cảng biển Khánh Hòa có thêm bến cảng tổng hợp Nam Vân Phong. Cảng biển Đồng Nai có thêm bến cảng Vĩnh Hưng và cảng biển TP Hồ Chí Minh có thêm bến cảng Bến Nghé Phú Hữu.

Hệ thống cảng biển Việt Nam có thêm 8 thành viên mới

Hệ thống cảng biển Việt Nam nâng tổng số lên 286 bến cảng

Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại. Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện có tổng cộng 286 bến cảng. Một số khu vực cảng biển có số bến cảng lớn, gồm: Hải Phòng có 50 bến, Vũng Tàu có 46 bến và TP Hồ Chí Minh có 42 bến.

Các cảng biển khác như: Cần Thơ có 21 bến cảng; Đồng Nai gồm 18 bến cảng; Khánh Hòa có 16 bến cảng; Quảng Ninh có 13 bến cảng; cảng biển Đà Nẵng có 8 bến; Nghi Sơn, Nghệ An, Dung Quất mỗi khu vực cảng biển có 7 bến; cảng biển Hà Tĩnh và Bình Thuận mỗi khu vực có 6 bến.

Một số cảng biển có số lượng bến ít, gồm: Quảng Bình, Quy Nhơn, Kiên Giang mỗi khu vực có 4 bến cảng; cảng biển Hải Thịnh, Đồng Tháp mỗi khu vực có 3 bến cảng; cảng biển Thái Bình, Thừa Thiên Huế, Kỳ Hà, Tiền Giang, cảng biển Cần Thơ (thuộc Sóc Trăng), Cà Ná (Ninh Thuận) mỗi khu vực có 2 bến cảng. Các cảng biển Quảng Trị, Vũng Rô, Bình Dương, Trà Vinh, An Giang, Vĩnh Long, Năm Căn đều có 1 bến cảng/khu vực.

Tình hình sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển

Năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam mặc dù vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng, nhưng tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với trung bình hàng năm, tăng 4% so với năm 2019, trong đó khối lượng hàng container thông qua cảng biển năm 2020 ước đạt 22,1 triệu, tăng 13% so với năm 2019.

Cảng biển Việt Nam có thành viên mới

Tới nay, đội tàu Việt Nam về cơ bản đã đảm nhận được gần 100% khối lượng hàng vận tải nội địa bằng đường biển. Trừ một số tàu chuyên dụng như hàng hóa lỏng (LPG), xi-măng rời. Tuy nhiên, thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam vẫn trong xu thế giảm. Năm 2015 đội tàu Việt Nam đảm nhận 10% thị phần hàng hóa xuất nhập khẩu. Đến năm 2020 thị phần giảm một nửa. Như vậy, thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu do đội tàu biển nước ngoài cũng tăng lên tương ứng. Đến nay đội tàu nước ngoài đã chiếm lĩnh 95% thị phần hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam.

“Với hệ thống bến cảng trải dài từ Bắc vào Nam, cảng biển Việt Nam đã và đang phát huy tốt vai trò đầu mối thông thương hàng hóa trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của đất nước”, đại diện Cục Hàng hải Việt Nam nhận định.

Trung bình mỗi năm, cảng biển Việt Nam đón khoảng 120.000 lượt tàu biển. Mức tăng trưởng tổng thể của hàng hóa đạt gần 16%/năm. Riêng năm 2020, tổng lượng hàng thông qua cảng biển Việt Nam đạt tới 692 triệu tấn, vượt từ 14 – 21% so với quy hoạch.

Kết luận

Từ thực tế đó nhiều ý kiến cho rằng cùng với việc phát triển thêm. Nâng cấp bến cảng thì rất quan trọng là chúng ta phải hình thành được những đội tàu lớn. Tuy nhiên, đầu tư đội tàu biển cần phải có nguồn vốn lớn, các ưu đãi từ phía Chính phủ. Rằng hiện chi phí lãi suất vay ngân hàng trong nước cao hơn lãi vay trên thế giới (thời điểm tháng 1/2021 lãi vay ngân hàng tại Việt Nam từ 8-10%. Trong khi lãi vay tại một số nước như Nhật Bản chỉ từ 1-2%, Singapore 3%, Trung Quốc 4,5%).   

Nguồn: vtv.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *